10 năm thực hiện Hệ thống cùng tham gia đảm bảo chất lượng ở Việt Nam – nghiên cứu tình huống

10 năm thực hiện Hệ thống cùng tham gia đảm bảo chất lượng ở Việt Nam – nghiên cứu tình huống

09/08/2018

Hệ thống cùng tham gia đảm bảo chất lượng (PGS) là một cơ chế đảm bảo chất lượng nông sản có chi phí thấp và hứa hẹn giành lại niềm tin từ phía người tiêu dùng. Được giới thiệu ở Việt Nam, PGS đầu tiên được áp dụng với sản phẩm hữu cơ, đến nay, hệ thống này đã được triển khai trong 10 năm để chứng nhận cho cả sản phẩm rau hữu cơ và rau an toàn.

Trong khuôn khổ dự án “Đúc kết kinh nghiệm và lợi ích PGS ở Việt Nam để nhân rộng và thể chế hóa”, được Liên minh Agroecology Learning tài trợ, Học viện Nông nghiệp Việt Nam và Rikolto đã đánh giá các mô hình PGS hiện có ở Việt Nam về điểm mạnh, điểm yếu và đưa ra khuyến nghị cải thiện PGS trong bối cảnh Việt Nam. Bản tóm tắt này nêu những phát hiện và khuyến cáo từ cuộc đánh giá trên.

Vui lòng tải bản đầy đủ theo link bên dưới bài viết.

Phân tích hiệu quả của PGS

1. Người tiêu dùng tiếp cận thực phẩm an toàn

Các PGS được xây dựng từ nhiều năm trước và tham gia nhiều hoạt động truyền thông thì hoạt động tốt hơn nhờ uy tín với khách hàng và người tiêu dùng. Các PGS còn non trẻ và nằm xa các khu vực đô thị thì phải nỗ lực hơn nhiều để đáp ứng nhu cầu khách hàng do kênh phân phối không ổn định, thương hiệu yếu, ít chủng loại rau và số lượng nhỏ lẻ. Thách thức lớn nhất là hình thức chứng nhận PGS chưa được nhà nước thừa nhận và chưa được nhiều người tiêu dùng biết đến.

2. Thu nhập và tiếp cận thị trường

Những PGS hoạt động tốt rõ ràng đã tăng khả năng tiếp cận thị trường cho thành viên của mình. Nghiên cứu cho thấy thu nhập của nông dân từ rau PGS cao hơn so với rau không có chứng nhận PGS và các loại cây trồng khác, ví dụ như lúa. Ở xã Thanh Xuân, Hà Nội và xã Tứ Xã, Phú Thọ, thu nhập trung bình của nông dân từ rau an toàn và rau hữu cơ PGS dao động từ 2,5 đến 10 triệu VND/tháng, tùy theo quy mô sản xuất và mùa vụ. Dù đa số các PGS có hợp đồng tiêu thụ ổn định với các nhà bán lẻ hay bếp ăn tập thể, vẫn còn đó rất nhiều khó khăn để đáp ứng yêu cầu về chủng loại và số lượng của người mua.

3. Bền vững về môi trường

Tại các địa bàn thực hiện PGS, nhờ tuân thủ các tiêu chuẩn hữu cơ hoặc GAP, tính bền vững về môi trường được đảm bảo. Theo quy định trong PGS hữu cơ, nông dân không được phép sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón hóa học cũng như phá rừng và các hệ sinh thái khác. Các biện pháp bảo tồn đất, chống nhiễm mặn cũng là yêu cầu. Trong GAP cơ bản, nông dân phải 1) sử dụng hóa chất trong danh mục cho phép, 2) học về IPM, 3) ghi chép hóa chất đã được sử dụng, và 4) quản lý rác thải an toàn. Người nông dân khẳng định sức khỏe của họ và độ phì của đất đã được cải thiện.

4. Bền vững về mặt xã hội và xây dựng cộng đồng

Nông dân cho biết từ khi bắt đầu thực hiện PGS, họ cảm thấy tính gắn kết cộng đồng giữa nông dân chặt chẽ hơn, họ học được trách nhiệm của mình với cộng đồng. Một số nông dân đánh giá cao tầm quan trọng của sư hỗ trợ và sự nhiệt tình của nhóm trong việc khuyến khích họ theo đuổi sản xuất hữu cơ. Một số PGSs thường tổ chức các hoạt động cộng đồng và hội chợ để nông dân chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau. Có 3 liên nhóm tham gia các hoạt động nâng cao nhận thức cộng đồng thông qua các tour sinh thái tổ chức cho học sinh và gia đình.

Phân tích SWOT PGS ở Việt Nam

Khuyến nghị

  1. Hệ thống PGS cần được chính quyền nhà nước cấp tỉnh/cấp trung ương chính thức công nhận là một hệ thống đảm bảo chất lượng để xây dựng niềm tin của người tiêu dùng vào PGS.

  2. Các điểm PGS cần được nhân rộng về số lượng và quy mô để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường. Những khu vực phù hợp để triển khai PGS cần được đưa vào quy hoạch.

  3. Một chương trình đào tạo tổng hợp cho tăng cường năng lực sản xuất cho nông dân sản xuất hữu cơ/an toàn, chế biến sau thu hoạch, lưu kho, kỹ năng lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh và năng lực tổ chức cần song hành với quá trình xây dựng PGS. Chương trình này cần được thực hiện theo phương pháp tham gia, chẳng hạn phương pháp lớp học hiện trường, đưa nông dân vào trung tâm của quá trình học tập.

  4. PGS cần phân công vai trò và trách nhiệm rõ ràng giữa các thành viên trong hệ thống về lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch kinh doanh, truy nguyên và quản lý thông tin. Ban điều phối chỉ nên bao gồm các thành viên hoạt động tích cực, mang lại lợi ích cho PGS.

  5. Phải xác định rõ một chiến lược huy động nguồn lực và thực hiện nó trong từng PGS để đầu tư hạ tầng và hỗ trợ các thành viên Ban điều phối cho nỗ lực của họ.

  6. Đầu tư vào truyền thông và thương hiệu phải là một phần không thể thiếu trong kế hoạch kinh doanh của PGS và / hoặc kế hoạch phát triển PGS.

  7. Một phần lợi nhuận của PGS phải được trích dùng để phân tích mẫu sản phẩm. Liên nhóm nên lôi kéo sự tham gia của nhà nước và khách hàng quen để hỗ trợ tài chính cho việc thử mẫu này.

  8. PGS cần xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với các tổ chức chính trị- xã hội như Hội LHPN, Hội Nông dân và Đoàn thanh niên để khuyến khích thêm nhiều nông dân tham gia PGS và tăng mức độ nhận diện thương hiệu.

  9. PGS cần lôi kéo sự tham gia của đại diện người tiêu dùng vào công tác thanh tra nội bộ, vào Ban điều phối và các chuyến thăm đồng ruộng để tăng niềm tin giữa nông dân và người tiêu dùng.

  10. Để hỗ trợ thể chế hóa PGS, những thông tin đáng tin cậy về hoạt động của PGS phải được thu thập làm cơ sở cho việc ra quyết định.

  11. Chính quyền địa phương cần hỗ trợ PGS thông qua các chính sách dồn điền đổi thửa, cho phép thành lập các nhóm nông dân dễ dàng hơn.

Lời cảm ơn

Rikolto và VNUA chân thành cảm ơn tất cả những nông dân, người tiêu dùng, đại diện các công ty, chính quyền địa phương và tổ chức phi chính phủ đã tham gia vào nghiên cứu PGS này. Cái nhìn của họ giúp chúng tôi có thêm nhiều kiến thức và cải thiện đáng kể những hiểu biết về thực trạng PGS tại Việt Nam.

Liên hệ

  • PGS. Trần Thị Định, Học viện Nông nghiệp Việt Nam - VNUA: ttdinh [at] vnua.edu.vn

  • Hoàng Thanh Hải, Điều phối viên dự án, Rikolto: hai.hoang [at] rikolto.org